Ngày 27/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật số 96/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (Luật số 32/2024/QH15), trong đó Luật có bổ sung 03 điều quy định về xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu: (i) Quyền thu giữ tài sản bảo đảm; (ii) Kê biên tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu; (iii) Hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, đây là những nội dung được các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ (tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ có chức năng mua, bán, xử lý nợ) rất quan tâm và mong chờ kể từ sau khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng hết hiệu lực ngày 31/12/2023, với các nội dung đáng chú ý sau:
Thứ nhất, “Quyền thu giữ tài sản bảo đảm” (TSBĐ) lần đầu tiên được luật hóa sau nhiều năm được áp dụng theo quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và trước đó là Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ chỉ có khi đáp ứng các điều kiện:
(i) Khi xảy ra các trường hợp xử lý TSBĐ theo quy định tại Điều 299 Bộ luật dân sự (như: Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của luật; Trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc luật có quy định) và Bên bảo đảm, người đang giữ TSBĐ không thực hiện nghĩa vụ giao TSBĐ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ để xử lý;
(ii) Hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ;
(iii) Biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ;
(iv) TSBĐ không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật; không thuộc trường hợp bị tạm đình chỉ xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản;
(v) TSBĐ được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ;
(vi) Bên nhận bảo đảm đã thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin liên quan đến thu giữ TSBĐ là bất động sản, động sản theo quy định pháp luật về thời gian, hình thức, cách thức công khai, đăng tải thông tin phù hợp với từng loại TSBĐ.
Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung một số quy định:
- Về trách nhiệm của chính quyền địa phương là Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm. Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm.
- Về việc ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm: Tổ chức tín dụng được ủy quyền thu giữ TSBĐ cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của TCTD đó; tổ chức mua bán, xử lý nợ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng bán nợ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng bán nợ; tổ chức tín dụng được chuyển giao bắt buộc được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc hoặc công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc.
Trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ, tổ chức được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
- Về trách nhiệm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ phải xây dựng và ban hành quy định nội bộ về trình tự, thủ tục thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm bao gồm cả quy định khi thực hiện việc ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Thứ hai, quy định về “Kê biên tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu”
Tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ bị kê biên, xử lý theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự khi thuộc một trong các trường hợp:
(i) Hợp đồng bảo đảm đã được ký kết và phát sinh hiệu lực sau thời điểm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật;
(ii) Thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ;
(iii) Có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ.
Thứ ba, quy định về “Hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự”
Sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ nếu hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Việc xử lý tài sản bảo đảm sau khi được hoàn trả trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Các quy định về xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2025. Tuy nhiên, để quy định về “Quyền thu giữ tài sản bảo đảm” sớm được thực thi trên thực tế, ngoài các quy định về điều kiện quy định tại Luật thì “TSBĐ được thu giữ” phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ, do đó, hy vọng rằng Chính phủ sẽ sớm ban hành quy định về điều kiện TSBĐ được thu giữ để các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ thực hiện quyền này để xử lý thu hồi nợ có hiệu quả.