1. Mở rộng, bổ sung đối tượng áp dụng của Luật Quản lý và đầu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
a. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
Đối tượng áp dụng theo Luật 69 chưa bao gồm doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư dưới 100% vốn điều lệ; các doanh nghiệp có vốn góp của các doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp; các doanh nghiệp có vốn góp của nhà nước do các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đầu tư vốn. Tuy nhiên, một số Nghị định của Chính phủ quy định nội dung liên quan đến đối tượng này lại theo hướng có thể vận dụng, xem xét quyết định áp dụng và chế độ báo cáo tài chính, thuế, kế toán… như đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Do đó, để khắc phục những bất cập này, Luật 68 đã mở rộng đối tượng áp dụng, bao gồm cả DNNN theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Tổ chức tín dụng do Nhà nước năm giữ trên 50% vốn điều lệ (trừ Ngân hàng chính sách).
Như vậy, sau khi Luật 68 có hiệu lực thì ngoài DNNN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thì đối tượng áp dụng của Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp số 68/2025/QH15 bao gồm:
- Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết: Công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con.
- Công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
b. Cơ quan đại diện chủ sở hữu
Luật 69 chỉ quy định chung cơ quan đại diện chủ sở hữu là cơ quan, tổ chức được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp do mình quyết định thành lập hoặc được giao quản lý. Luật 68 đã quy định cụ thể về cơ quan đại diện chủ sở hữu, bao gồm:
2. Bổ sung hình thức đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và các trường hợp đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
Nhằm cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”, “Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế”, “Tăng cường đầu tư, nâng cao năng lực của doanh nghiệp nhà nước về đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại, sử dụng tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường” tại Nghị quyết số 12/NQ-TW, Luật 68 đã bổ sung quy định về các hình thức đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và các trường hợp đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, cụ thể như sau:
a. Bổ sung hình thức đầu tư vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp (Điều 12):
b. Bổ sung các trường hợp đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (Điều 13):
3. Tăng cường phân cấp, phân quyền cho Hội đồng thành viên, Chủ tịch Công ty trong việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
Nếu như trước đây, Luật 69 quy định Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty quyết định sau khi cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt về các nội dung như: Chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển 05 năm và kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp; Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với Tổng giám đốc hoặc Giám đốc; Báo cáo tài chính; phân phối lợi nhuận, trích lập các quỹ hằng năm của doanh nghiệp… thì Luật 68 đã có những quy định mới nhằm tăng cường phân quyền cho Hội đồng thành viên, Chủ tịch Công ty nhiều hơn, cụ thể như:
Đồng thời với việc tăng cường phân quyền cho Hội đồng thành viên, Chủ tịch Công ty trong việc quản lý vốn nhà nước thì Luật 68 cũng bổ sung các quy định tăng cường trách nhiệm của Hội đồng thành viên, Chủ tịch Công ty:
4. Về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp, người đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp
a) Đánh giá, xếp loại DNNN
Luật 69 quy định tiêu chí việc đánh giá xếp loại DNNN là kết quả hoạt động của doanh nghiệp (doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu), trong khi đó, một số DNNN còn phải thực hiện một số nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao (các nhiệm vụ này thường có hiệu quả kinh tế không cao mà chủ yếu hiệu quả về mặt xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng). Do đó, việc đánh giá, xếp loại tất cả các DNNN chỉ dựa trên kết quả hoạt động mà bỏ qua các tiêu chí đặc thù của một số DNNN đã bộc lộ nhiều bất cập.
Để khắc phục quy định trên thì Luật 68 đã bổ sung các tiêu chí riêng cho việc đánh giá, xếp loại một số các doanh nghiệp đặc thù như:
b) Xếp loại người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, kiểm soát viên
Luật 68 quy định về đánh giá người đại diện chủ sở hữu trực tiếp dựa trên các tiêu chí sau:
Kết quả đánh giá người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn nhà nước, Kiểm soát viên tại doanh nghiệp là cơ sở để xem xét bổ nhiệm, cử, giới thiệu, thuê, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, chấp thuận từ chức, cho thôi, miễn nhiệm, chấm dứt hợp đồng và khen thưởng, kỷ luật theo quy định.
Trên cơ sở kế thừa, nối tiếp Luật số 69/2014/QH13 thì Luật số 68/2025/QH15 đã có những bước đột phá trong quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Việc phân cáp, phân quyền mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp, đi kèm với trách nhiệm giải trình, minh bạch và giám sát hiệu quả, sẽ giúp doanh nghiệp Nhà nước thực sự trở thành lực lượng nòng cốt, đóng vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững vai trò dẫn dắt các lĩnh vực then chốt, đảm bảo an ninh kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Những quy định đổi mới của Luật số 68/2025/QH15 được kỳ vọng sẽ góp phần tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ và khơi thông các nguồn lực hiện có trong Doanh nghiệp Nhà nước để Doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục dẫn dắt và tạo động lực phát triển cho nền kinh tế.