Một số điểm mới của Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp số 68/2025/QH15

12/08/2025
Ngày 14/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp số 68/2025/QH15 (Luật 68). Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/8/2025, thay thế Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 (Luật 69). Luật 68 bao gồm 8 Chương, 59 Điều, điều chỉnh việc đầu tư và quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, áp dụng cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cơ quan đại diện chủ sở hữu, người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước và các tổ chức, cá nhân liên quan. Sau đây là một số điểm mới của Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp số 68/2025/QH15:

1. Mở rộng, bổ sung đối tượng áp dụng của Luật Quản lý và đầu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp

a. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)

Đối tượng áp dụng theo Luật 69 chưa bao gồm doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư dưới 100% vốn điều lệ; các doanh nghiệp có vốn góp của các doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp; các doanh nghiệp có vốn góp của nhà nước do các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đầu tư vốn. Tuy nhiên, một số Nghị định của Chính phủ quy định nội dung liên quan đến đối tượng này lại theo hướng có thể vận dụng, xem xét quyết định áp dụng và chế độ báo cáo tài chính, thuế, kế toán… như đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Do đó, để khắc phục những bất cập này, Luật 68 đã mở rộng đối tượng áp dụng, bao gồm cả DNNN theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Tổ chức tín dụng do Nhà nước năm giữ trên 50% vốn điều lệ (trừ Ngân hàng chính sách). 

Như vậy, sau khi Luật 68 có hiệu lực thì ngoài DNNN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thì đối tượng áp dụng của Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp số 68/2025/QH15 bao gồm: 

- Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết: Công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con. 

- Công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. 

b. Cơ quan đại diện chủ sở hữu

Luật 69 chỉ quy định chung cơ quan đại diện chủ sở hữu là cơ quan, tổ chức được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp do mình quyết định thành lập hoặc được giao quản lý. Luật 68 đã quy định cụ thể về cơ quan đại diện chủ sở hữu, bao gồm: 

  • Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước.
  • Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước.

2. Bổ sung hình thức đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và các trường hợp đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

Nhằm cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”, “Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế”, “Tăng cường đầu tư, nâng cao năng lực của doanh nghiệp nhà nước về đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại, sử dụng tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường tại Nghị quyết số 12/NQ-TW, Luật 68 đã bổ sung quy định về các hình thức đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và các trường hợp đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, cụ thể như sau:

a. Bổ sung hình thức đầu tư vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp (Điều 12): 

  • Đầu tư vốn nhà nước để bổ sung vốn tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có vốn nhà nước.
  • Đầu tư vốn nhà nước để góp vốn thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
  • Đầu tư vốn nhà nước để góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp tại doanh nghiệp chưa có vốn nhà nước.

b. Bổ sung các trường hợp đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (Điều 13):

  • Doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội.
  • Doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh.
  • Doanh nghiệp hoạt động tại những địa bàn trọng yếu về quốc phòng, an ninh.
  • Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền tự nhiên.
  • Doanh nghiệp phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
  • Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế.
  • Doanh nghiệp xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia.
  • Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế theo quy định của Chính phủ.

3. Tăng cường phân cấp, phân quyền cho Hội đồng thành viên, Chủ tịch Công ty trong việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

Nếu như trước đây, Luật 69 quy định Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty quyết định sau khi cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt về các nội dung như: Chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển 05 năm và kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp; Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với Tổng giám đốc hoặc Giám đốc; Báo cáo tài chính; phân phối lợi nhuận, trích lập các quỹ hằng năm của doanh nghiệp… thì Luật 68 đã có những quy định mới nhằm tăng cường phân quyền cho Hội đồng thành viên, Chủ tịch Công ty nhiều hơn, cụ thể như:

  • Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty quyết định việc ban hành, điều chỉnh chiến lược phát triển, kế hoạch kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các nhiệm vụ, chỉ tiêu cơ bản được đại diện chủ sở hữu nhà nước giao (khoản 1 Điều 18).
  • Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, người phê duyệt phương án huy động vốn, cho vay vốn chịu trách nhiệm về quyết định của mình, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, bảo đảm vốn huy động, vốn cho vay được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và thu nợ, trả nợ đúng thời hạn đã thỏa thuận (khoản 4 Điều 19).
  • Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty quyết định từng dự án đầu tư, khoản đầu tư có mức vốn đầu tư không quá 50% vốn chủ sở hữu hoặc không quá 50% vốn đầu tư của chủ sở hữu trong trường hợp vốn chủ sở hữu thấp hơn vốn đầu tư của chủ sở hữu nhưng không quá mức cụ thể theo quy định của Chính phủ. Vốn chủ sở hữu, vốn đầu tư của chủ sở hữu quy định tại điểm này được xác định theo báo cáo tài chính quý hoặc báo cáo tài chính năm của doanh nghiệp tại thời điểm gần nhất với thời điểm quyết định dự án (khoản 3 Điều 20).
  • Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty quyết định chuyển nhượng dự án đầu tư, vốn đầu tư có giá trị không quá 50% vốn chủ sở hữu hoặc không quá 50% vốn đầu tư của chủ sở hữu trong trường hợp vốn chủ sở hữu thấp hơn vốn đầu tư của chủ sở hữu nhưng không quá mức cụ thể theo quy định của Chính phủ. Vốn chủ sở hữu, vốn đầu tư của chủ sở hữu quy định tại khoản này được xác định theo báo cáo tài chính quý hoặc báo cáo tài chính năm của doanh nghiệp tại thời điểm gần nhất với thời điểm quyết định chuyển nhượng (khoản 2 Điều 21).
  • Thẩm quyền quyết định mua, thuê mua tài sản cố định thực hiện theo giá trị quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 Điều 20 của Luật này. Người quyết định mua, thuê mua tài sản cố định phải chịu trách nhiệm về việc quyết định không đúng thẩm quyền hoặc tài sản cố định được mua, thuê mua không sử dụng được, sử dụng không hiệu quả (khoản 3 Điều 22).
  • Dựa trên các nguyên tắc xác định tiền lương, thù lao, tiền thưởng tại khoản 1 Điều 24 thì Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty quyết định tiền lương, thù lao, tiền thưởng và quyền lợi khác của người lao động, các chức danh quản lý của doanh nghiệp thông qua việc ban hành quy chế tiền lương, thù lao, tiền thưởng (khoản 4 Điều 24).
  • Hội đồng thành viên, Chủ tịch Công ty ban hành: Quy chế tài chính; Quy chế quản lý nợ phải thu, phải trả; Quy chế quản lý và sử dụng tài sản cố định; Quy chế tiền lương, thù lao, tiền thưởng; Quy chế hoạt động của người đại diện phần vốn của doanh nghiệp; Quy chế hoạt động và quản lý, sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp tại nước ngoài phù hợp với quy định của pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư, bảo đảm quản lý chặt chẽ, chống thất thoát và các quy chế khác của doanh nghiệp (Điều 36).

Đồng thời với việc tăng cường phân quyền cho Hội đồng thành viên, Chủ tịch Công ty trong việc quản lý vốn nhà nước thì Luật 68 cũng bổ sung các quy định tăng cường trách nhiệm của Hội đồng thành viên, Chủ tịch Công ty:

  • Chịu trách nhiệm trước pháp luật về vi phạm gây tổn thất vốn, tài sản của doanh nghiệp.
  • Dự báo, cảnh báo, báo cáo kịp thời với cơ quan đại diện chủ sở hữu khi doanh nghiệp có nguy cơ, rủi ro dẫn đến thất thoát, hoạt động thua lỗ, không bảo đảm khả năng thanh toán, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, phát sinh vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động đầu tư và những trường hợp sai phạm khác.
  • Báo cáo định kỳ hằng năm về tiến độ thực hiện đối với dự án đang trong quá trình đầu tư tại nước ngoài; báo cáo về hiệu quả đầu tư đối với dự án đang hoạt động tại nước ngoài.
  • Thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty không được tiếp tục làm người đại diện chủ sở hữu trực tiếp khi không còn đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ, quyền hạn được giao hoặc bị đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ hoặc trong trường hợp có dấu hiệu bất thường về tình hình hoạt động của doanh nghiệp có nguy cơ ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.

4. Về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp, người đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp

a) Đánh giá, xếp loại DNNN

Luật 69 quy định tiêu chí việc đánh giá xếp loại DNNN là kết quả hoạt động của doanh nghiệp (doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu), trong khi đó, một số DNNN còn phải thực hiện một số nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao (các nhiệm vụ này thường có hiệu quả kinh tế không cao mà chủ yếu hiệu quả về mặt xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng). Do đó, việc đánh giá, xếp loại tất cả các DNNN chỉ dựa trên kết quả hoạt động mà bỏ qua các tiêu chí đặc thù của một số DNNN đã bộc lộ nhiều bất cập. 

Để khắc phục quy định trên thì Luật 68 đã bổ sung các tiêu chí riêng cho việc đánh giá, xếp loại một số các doanh nghiệp đặc thù như: 

  • Việc thực hiện nhiệm vụ cung ứng sản phẩm, dịch vụ công do Nhà nước giao nhiệm vụ, đặt hàng; việc thực hiện nhiệm vụ chính trị do cơ quan có thẩm quyền giao, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
  • Hiệu quả hoạt động tổng thể của doanh nghiệp, có loại trừ các tác động do thực hiện nhiệm vụ chính trị do cơ quan có thẩm quyền giao; nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; nhiệm vụ không vì mục tiêu lợi nhuận; việc thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới và tác động của yếu tố khách quan.

b) Xếp loại người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, kiểm soát viên

Luật 68 quy định về đánh giá người đại diện chủ sở hữu trực tiếp dựa trên các tiêu chí sau: 

  • Kết quả đánh giá, xếp loại doanh nghiệp.
  • Việc chấp hành chính sách, pháp luật của doanh nghiệp.
  • Việc chấp hành chính sách, pháp luật về quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp của người đại diện chủ sở hữu trực tiếp.

Kết quả đánh giá người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn nhà nước, Kiểm soát viên tại doanh nghiệp là cơ sở để xem xét bổ nhiệm, cử, giới thiệu, thuê, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, chấp thuận từ chức, cho thôi, miễn nhiệm, chấm dứt hợp đồng và khen thưởng, kỷ luật theo quy định.

Trên cơ sở kế thừa, nối tiếp Luật số 69/2014/QH13 thì Luật số 68/2025/QH15 đã có những bước đột phá trong quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Việc phân cáp, phân quyền mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp, đi kèm với trách nhiệm giải trình, minh bạch và giám sát hiệu quả, sẽ giúp doanh nghiệp Nhà nước thực sự trở thành lực lượng nòng cốt, đóng vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững vai trò dẫn dắt các lĩnh vực then chốt, đảm bảo an ninh kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Những quy định đổi mới của Luật số 68/2025/QH15 được kỳ vọng sẽ góp phần tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ và khơi thông các nguồn lực hiện có trong Doanh nghiệp Nhà nước để Doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục dẫn dắt và tạo động lực phát triển cho nền kinh tế.