Điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ.

22/12/2025
Quy định điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ đối với tài sản bảo đảm là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2025

Ngày 25/11/ 2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 304/2025/NĐ-CP quy định điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ theo điểm đ khoản 2 Điều 198a Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15.

Tại Điều 198a Luật số 96/2025/QH15 ngày 27/6/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (Luật số 32/2024/QH15) ghi nhận “Quyền thu giữ tài sản bảo đảm” của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức mua bán, xử lý nợ khi đáp ứng các điều kiện: 

(i) Khi xảy ra các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) theo quy định tại Điều 299 Bộ luật dân sự và Bên bảo đảm, người đang giữ TSBĐ không thực hiện nghĩa vụ giao TSBĐ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ để xử lý;  

(ii) Hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc Bên bảo đảm đồng ý cho Bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ;

(iii) Biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; 

(iv) TSBĐ không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật; không thuộc trường hợp bị tạm đình chỉ xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản; 

(v) TSBĐ được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ

(vi) Bên nhận bảo đảm đã thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin liên quan đến thu giữ TSBĐ là bất động sản, động sản theo quy định pháp luật về thời gian, hình thức, cách thức công khai, đăng tải thông tin phù hợp với từng loại TSBĐ.  

So với quy định trước đây (Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụngthì điều kiện để thực hiện “Quyền thu giữ tài sản bảo đảm” có bổ sung thêm điều kiện “TSBĐ được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ”. Ngày 25/11/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 304/2025/NĐ-CP quy định điều kiện TSBĐ của khoản nợ xấu được thu giữ đối với trường hợp TSBĐ là chỗ ở duy nhất”, “công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất”, theo đó: TSBĐ của khoản nợ xấu là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất chỉ được thu giữ khi đáp ứng các điều kiện quy định tại điểm a, b, c, d, e khoản 2 Điều 198a Luật số 32/2024/QH15 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15 và một trong các điều kiện sau:

- Trường hợp thu giữ TSBĐ được xác nhận và chứng minh là chỗ ở duy nhất của Bên bảo đảm thì Bên nhận bảo đảm trích một khoản tiền cho Bên bảo đảm bằng 12 tháng lương tính theo mức lương tối thiểu quy định (mức lương tối thiểu theo vùng nơi Bên bảo đảm đang thực tế sinh sống theo quy định của Chính phủ về mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động). 

“Chỗ ở duy nhất” là chỗ ở hợp pháp của Bên bảo đảm là cá nhân và đáp ứng các điều kiện (i) Là tài sản thuộc quyền sở hữu của Bên bảo đảm; (ii) Là nơi Bên bảo đảm đăng ký thường trú hoặc tạm trú; (iii) Nếu bị thu giữ TSBĐ là chỗ ở duy nhất, Bên bảo đảm không có chỗ ở khác.

- Trường hợp thu giữ TSBĐ được xác nhận và chứng minh công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất không hình thành từ vốn vay của Bên bản đảm thì Bên nhận bảo đảm trích một khoản tiền cho Bên bảo đảm bằng 06 tháng lương tính theo mức lương tối thiểu quy định (mức lương tối thiểu theo vùng nơi Bên bảo đảm đang thực tế sinh sống theo quy định của Chính phủ về mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động). 

Công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất” là động sản được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của Bên bảo đảm là cá nhân và đáp ứng các điều kiện: (i) Công cụ lao động có giá trị không quá 24 tháng lương tính theo mức lương tối thiểu quy định; (ii) Nếu bị thu giữ TSBĐ là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất, Bên bảo đảm không có đủ thu nhập tối thiểu bằng mức lương tối thiểu theo vùng nơi Bên bảo đảm đang thực tế sinh sống theo quy định của Chính phủ về mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động.

Việc xác nhận và chứng minh về việc TSBĐ của khoản nợ xấu có là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất hay không là quyền và trách nhiệm của Bên bảo đảm, theo đó: Tại hợp đồng bảo đảm hoặc tại văn bản khác, Bên bảo đảm có cam kết xác nhận và chứng minh TSBĐ thuộc hoặc không thuộc trường hợp là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất theo yêu cầu của Bên nhận bảo đảm trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của Bên nhận bảo đảm. Trường hợp Bên bảo đảm không thực hiện xác nhận và chứng minh, TSBĐ là chỗ ở, công cụ lao động được xác định không thuộc trường hợp là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất.

Các tài liệu chứng minh về việc TSBĐ của khoản nợ xấu có là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất, bao gồm: (i) Giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với TSBĐ và các tài sản khác (nếu có); (ii) Sao kê tài khoản ngân hàng ghi nhận thu nhập hàng tháng của Bên bảo đảm; (iii) Tài liệu chứng minh việc thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân của Bên bảo đảm; (vi) Hóa đơn điện hoặc nước hoặc internet ghi nhận địa chỉ thường trú, tạm trú của Bên bảo đảm; (v) Các tài liệu chứng minh khác. Bên bảo đảm chịu trách nhiệm về nội dung xác nhận và tính đúng đắn, hợp pháp đối với các tài liệu chứng minh này.

Bên cạnh đó, Nghị định quy định Quyền và trách nhiệm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ trong việc (i) Cung cấp đầy đủ thông tin cho Bên bảo đảm về quyền và trách nhiệm của Bên bảo đảm, quyền và trách nhiệm của Bên nhận bảo đảm; (ii) Trích khoản tiền cho Bên bảo đảm theo quy định và được tính số tiền này vào chi phí xử lý TSBĐ; (iii) Tiến hành thu giữ TSBĐ khi đáp ứng điều kiện và thuộc trường hợp quy định tại Nghị định. Việc thu giữ TSBĐ thực hiện theo quy định tại khoản 3, khoản 4, khoản 5, khoản 6, khoản 7 Điều 198a Luật số 32/2024/QH15 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15.

Với các quy định cụ thể về “Quyền thu giữ tài sản bảo đảm” của  các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức mua bán, xử lý nợ tại Luật số 96/2025/QH15 ngày 27/6/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng và quy định về điều kiện TSBĐ của khoản nợ xấu tại Nghị định 304/2025/NĐ-CP ngày 25/11/ 2025 của Chính phủ đã tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý thực hiện xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ có kết quả tốt hơn trong thời gian tới.